MatTrinh.wap.sh Wapsite Giải Trí Dành Cho Mobile™
DATE :TIME :
☆ Ma ??? ☆
HIỆN TƯỢNG TÂM LINH và THẾ GIỚI MA THUẬT - HIỆN TƯỢNG TÂM LINH VÀ THẾ GIỚI MA THUẬT
QUA NHỮNG GIẢI THÍCH KHOA HỌC Từ khi loài người xuất hiện trên quả đất, hiện
tượng tâm linh và lĩnh vực ma thuật đã bắt đầu
phát triển. Các nhà khảo cổ, các nhà sử học và
nhân chủng học đã khám phá ra nhiều bằng
chứng về sự phát minh và phát triển của ma thuật
thuở loài người còn sống theo kiểu ăn lông ở lỗ. Các dấu tích về các vật dụng để thờ cúng, từ đá và
xương cốt hay các hình vẽ trên các vách đá trong
cách hoạt động cho thấy, sinh hoạt thời hỗn
mang đó của loài người đã có những buổi lễ tôn
vinh thần linh ma quỷ. Lúc bấy giờ cũng phát sinh
các pháp sư, thầy phù thủy đầy uy lực và uy quyền. Một số nhà khảo cổ và nhân chủng học cho
giống người Neantherdale là văn minh nhất.
Nhưng các khám phá sau đó lại cho thấy giống
người Cromangnon có nhiều đặc điểm tiến hóa
cao về lĩnh vực đời sống tâm linh, qua các bằng
chứng cổ xưa từ các hình vẽ trên vách đá các buổi lễ thờ cúng, và các hình ảnh về ma thuật đầy
màu sắc. Đặc biệt là người chết được đem chôn
theo các nghi lễ đầy vẻ huyền bí. Lý luận của một nhà nghiên cứu về nhân chủng
học, dân tộc học thường cho rằng khi con người
còn man dã chưa tìm ra được lửa thì mỗi khi màn
đêm xuống, nỗi lo sợ đã đổ ập lên người họ, rồi
khi sống trong các hang động và tìm được lửa thì
những hình ảnh chập chờn ma quái lại càng khiến họ sợ sệt hơn thêm, qua những hình ảnh lạ
lùng. Và ma quỷ phát sinh nhiều hơn thêm qua trí
tưởng tượng họ. Về thần linh thì sấm sét, núi lửa,
động đất là những nguyên nhân làm họ tin
tưởng đến sức mạnh vô hình nào đó, sức mạnh
của các thần linh. Năng lượng tinh thần Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế
giới huyền bí để nghiên cứu tìm hiểu xem năng
lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề
nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Theo họ não bộ
người là một cái bình Ác-quy siêu đẳng và huyền
bí rất nhiều. Bộ não người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy
nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến còn tùy
ở cơ thể người mang bộ não. Dưới mắt nhà khoa
học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt ma, các
nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay
trong các đạo viên khuất sau rặng tuyết sơn mà nghiên cứu toàn thể bộ não người. Lý do là
những con người không trải qua quá trình tu
luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng
tinh thần rất lớn, họ có thể nhìn xuyên qua vách
tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng
cách rất xa. Có người còn dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy
mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để
chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ý
nghĩ của người khác v.v... Nga từ lâu đã thành lập
viện nghiên cứu óc não. Viện này quy tụ nhiều
nhà khoa học lỗi lạc. Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng
thời mở được cả cánh cửa Huyền môn để vào thế
giới mà từ lâu loài người thường cho là thế giới vô
cùng huyền bí. Bề ngoài thế giới chỉ biết được
mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là
tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng
tàng ẩn bên trong là những nghiên cứu có liên
quan đến các sự kiện vượt ra ảnh hưởng của
trường vật lý của quả đất mà con người đang
sống. Những sự kiện mà từ lâu con người bán tín
bán nghi như ma quỷ, sự xuất hồn hay nhập hồn, sự thông linh, suy đoán tương lai, sự đọc,
hiểu tư tưởng kẻ khác hay nghe, thấy từ khoảng
cách rất xa theo kiểu thiên lý nhĩ, thiên lý nhãn...
Hoa Kỳ cũng không bỏ qua lãnh vực nghiên cứu
vừa kể. Viện nghiên cứu óc não của họ được
trang bị đầy đủ các loại máy móc tối tân với vô số các nhà bác học lỗi lạc tập trung nghiên cứu. Nơi
đây các bộ não được lưu trữ không những là của
các danh nhân thế giới sau khi qua đời mà còn là
của những con người bình thường nhưng có khả
năng kỳ diệu về thấu thị, về chuyển di tư tưởng,
chữa bệnh qua khoảng cách, nhìn xuyên suốt không gian v.v... Ví dụ như bộ não của Edgar
Cayce người Hoa Kỳ, ông chỉ là một người bình
thường như bao người khác nhưng vào năm 35
tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm
của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước
mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên. Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời
nên ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc não bộ óc của
mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các
khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên
trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng,
nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí. Mới đây,
các nhà khoa học còn tìm thấy một cơ phận kỳ
diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh:
đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong
hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995
đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian
dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi
con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm,
năng lượng của bộ não của họ cũng chỉ mới sử
dụng một hay hai phần mười mà thôi. Năng
lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng mã
phát mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu
của viện nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng
gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng
lượng hay điện não của bộ não người đã chết với
năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết. Nhiều người bình thường như bao người khác,
họ không phải là các đại sư đã hằng bao năm
khổ hạnh tu luyện trong các hang động, rừng
sâu núi thẳm hay các phù thủy lừng danh nhưng
đôi khi lại có năng lực kỳ diệu phát sinh từ bộ
não. Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh trời Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên
nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình, đã đi sâu
vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự
kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện
tượng lạ lùng không thể giải thích được. Thời ấy
các nhà khoa học và dân tộc nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions
Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold...
đặc biệt là một người đàn bà, một nữ văn sỉ tên là
Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã
trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở
của đỉnh trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực
siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây
phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng
của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những
năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống
trong hang động, nơi mà Trời và Đất gần như hòa nhau thành một. Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư
đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn
luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau
qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay
hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng
người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự
tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả
năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ
đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay
xấu mà người đó đang dự định. Năng lực của
con mắt thứ ba: Thần nhãn hay Huệ nhã. Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ
khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà
các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện
có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý
do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể
cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy,
người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt,
nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông
thường của con người mà là từ một con mắt thứ
ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói
theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham
lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong
sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi
mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không
còn sử dụng được nữa. Các nhà nghiên cứu về
Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách
rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại
có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn
lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới
động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy
hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh
thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò
sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng
đều có dấu tích con mắt thứ ba. Khi khảo sát bộ
xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà
cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán
nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói
theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là "con mắt
thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp
các loài động vật thời cổ không những thấy mà
còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật
thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám
phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà
khoa học đã cho biết là trong não người có một
cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh
nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất
nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm
cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai
đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử
nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng quả
(Pineal gland). Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất
ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà
sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal
gland còn có liên quan tới bộ phận mà người Tây
Tạng gọi là con mắt thứ ba. Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si
mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì
mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại
sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi
cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm
là có thể có năng lượng thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị đại sư thì không phải tất cả
các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay
Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần
nhãn thì người đó phải hội đủ các điểm cần yếu
như đã nói trên mà còn phải có Thần lực đặc biệt
kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để
khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì
dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong
rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở
khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến
một nơi nào đó cho ai. Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có
những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng
giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các
phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa
học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để
chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa
hai người này sẽ ở vị trí xa hơn. Cứ thế mà về lâu
về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng
cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo
viện này đến đạo viện khác, từ hang động này
đến hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm
hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng
của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.